Pháp VÔ VI và HỮU VI

Đạo và Đời

Quản Trị Diễn Đàn 0989.913.611
Pháp VÔ VI và HỮU VI
Hết thảy pháp hữu-vi, đều quay về vô-thường.

Sự ân ái và hòa hợp, tất về nơi biệt ly.

Hành tướng sự vật thế, không nên sinh lo buồn!

Các pháp hữu-vi đều như thế cả; hết thảy sự hội-hợp, đều phải biệt-ly

Pháp hữu vi là do nhân duyên hòa hợp nên hữu hình thì hữu hoại. Luật vô thường sinh diệt không sót một ai chẳng hạn từ những vật nhỏ như hạt cát đến lớn như mặt trời, mặt trăng thì hễ có sinh tất phải có diệt.

Ngược lại pháp vô vi là pháp không sanh không diệt, không tăng không giảm, không do ai tạo ra cả mà chính là tự tánh của các pháp tức là thanh tịnh bản nhiên.

vô vi là Chân Không nên không thể dùng ngôn ngữ hay văn tự để diễn tả hay so sánh được.


Tuy nhiên, để có một ý niệm về Thể Tánh Chân Như, Duy Thức Luận dựa vào sắc tướng để hình dung mà đặt thành “Sáu pháp vô vi” như sau:

1) Hư không vô vi: Vì Chơn Như hay Pháp Tánh là Chơn Không Diệu Tánh nên không do nhân duyên nào kết hợp mà tạo ra nên không có nhiễm ô, đau buồn hay sung sướng. Nó không hình không sắc, không dơ không sạch, không sanh không diệt, rỗng rang tịch diệt như hư không bao trùm khắp không gian vô cùng vô tận nên gọi là Hư không vô vi. Chơn Như là sự thanh tịnh có sẳn trong tất cả mọi người cũng như vạn pháp chỉ vì con người bị vô minh phiền não che lấp nên đánh mất cái thanh tịnh nầy.

2) Trạch diệt vô vi: Trạch là chọn lựa. Diệt là diệt trừ. Do đó Trạch diệt vô vi là nhờ sự chọn lựa trí huệ vô lậudiệt trừ các phiền não nhiễm ô nên Chơn Như vô vi mới hiện. Đức Phật dạy rằng Phật tánh, Chơn Như thì luôn luôn thanh tịnh, nhưng tại sao con người còn phiền não khổ đau? tham-sân-si, ái dục để tạo ra phiền não khổ đau là phát xuất từ bên ngoài cho nên nếu con người đừng trụ chấp có nghĩa là các thứ nhiễm ô có đến rồi tự nó đi thì Phật tánh không bị vô minh che lấp. Thấy Phật tánh tức là Tâm được thanh tịnh. Xa lìa phiền não, tránh xa nhiễm ô thì tâm sẽ được thanh tịnh và đây là trạch diệt vô vi.

3) Phi trạch diệt vô vi: Trạch diệt vô vi có được là nhờ biết lìa xa phiền não khổ đau để tâm được thanh tịnh. Nói thế không có nghĩa là Pháp tánh hay Chân Như là do sự diệt trừ phiền não mà có. Bởi vì Pháp Tánh vốn đã có sẵn, xưa nay vốn thanh tịnh, không bị nhiễm ô, không sanh không diệt nên gọi là Phi trạch diệt vô vi. Phi trạch diệt còn có một ý nghĩa thứ hai là mặc dầu con người có tham nhiễm, chạy theo lục dục thất tình nhưng vì thiếu nhân duyên nên các phiền não không thành quả tức không xuất hiện vì thế pháp vô vi thanh tịnh tự hiện ra chớ không cần chọn lựa diệt trừ.

4) Bất động diệt vô vi: Khi con người đã lìa xa các phiền não, ý niệm dấy lên liền dùng thiền quán mà xóa bỏ luôn. Đây chính là tứ thiền, là cõi cao nhất trong Sắc giới và cũng là cõi hoàn toàn thanh tịnh.

5) Tưởng thọ diệt vô vi: Khi đạt được Tứ thiền thì thiền giả có thể đi thẳng tới Diệt Thọ Tưởng định để diệt trừ hết “Thọ” và “Tưởng” thì Chơn Như hiện ra. Sự thanh tịnh nầy gọi là Tưởng thọ diệt vô vi,

6) Chơn Như vô vi: lìa xa vọng thì có Chơn. Lìa xa phiền não điên đảo thì có Như. Năm pháp vô vi ở trên chỉ là hình dung các đức tính của Chơn Như. Chính Chơn Như vô vi mới chỉ đích danh Bản Thể Chơn Như.
 
HỮU VI và VÔ VI
- Tất cả các hiện tượng vạn pháp là do nhân duyên sanh khởi nên gọi là hữu vi. Nói chung bất cứ cái gì mà có hình, có tướng đều là hữu vi cả.
- Ngược lại, vô vi không phải là do nhân duyên kết tạo và chính là tự tánh của hư không vũ trụ. Nói một cách khác bất cứ cái gì trên thế gian nầy mà con người thấy biết được là có (hữu)không thấy biết được thì gọi là không (vô).

Khi có sự phân biệt cái có với cái không thì có và không dĩ nhiên là đối đãi, phân biệt là hai. Nhưng thật ra cái có (hữu) chính là không (vô) bởi vì cái có tự nó không có tự tánh nên nó là không. Còn cái không (vô) lại là có (hữu) vì bất biến tùy duyên nghĩa là từ cái không mà duyên khởi sinh ra cái có.

Tóm lại: có tức là không và không tức là có, cho nên có và không là không hai, tức là trở về với cái trí vô phân biệt, với căn bản trí của mình
 
Back
Top Dưới