Phật - Bồ Tát - Thanh Văn - Phàm Nhân nhìn đời khác nhau như nào?

Đạo và Đời

Quản Trị Diễn Đàn 0989.913.611
PHẬT - BỒ TÁT - THANH VĂN - PHÀM NHÂN
Nhìn Đời Như Nào?​

1) Đối với phàm nhân:

Họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật.

Họ tin thân mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.


2) Thanh Văn nhìn đời theo Nhất Thiết Trí:

Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của những nổi khổ nên họ cố tu để chứng đắc sự an lạc của Niết bàn và tìm sự giải thoát quả vị Bồ- đề.

Chẳng những nhìn thân mình không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm.

Vì thế hàng Thanh văn thì chấp ngã không còn tức là Ngã Không, nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có đạo quả Bồ- đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có.

Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết Trí.


3) Bồ Tát nhìn đời theo Đạo Chủng Trí:

Bồ tát nhìn thế gian vũ trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không thật, là Không.

Vì ta là giả, là không thật nên Bồ Tát có ngã không. Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không thật nên có pháp không.

Nói một cách tổng quát dưới mắt của Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được hoàn toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.


4) Phật nhìn đời theo Nhất Thiết Chủng Trí:

Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí: thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống không.

vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có thật.

Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đỡ cho tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy.


5. Kết Luận

Chúng sinh vì dùng nhục nhãn mà nhìn thế gian nên thấy có phân biệt, hơn thua, tốt xấu, có ngã và ngã sở rồi sanh ra chấp pháp cho nên có phiền não khổ đau.

Bồ-tát dùng tuệ nhãn mà hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thì thấy tất cả là Không vì tất cả là huyễn hóa, là do duyên khởi tạo thành nên không chấp cái hình tướng bên ngoài nên không có tâm phân biệt tốt xấu cho nên không còn đau khổ, diệt hết mọi ưu phiền. Vì thế cõi nước của Bồ-tát được thanh tịnh là vậy


Dưới mắt của người có tâm tham-sân-si, vô minh phiền não thì Ta bà này là cõi uế độ, là cảnh bất toàn, nhưng đối với người có tâm thanh tịnh cho dù họ ở đâu thì cảnh đó, thế giới đó đều trở thành thanh tịnh. Cũng trong thế giới Ta bà nầy mà chính Đức Phật Thích Ca và biết bao đại đệ tử của Ngài vẫn có được Niết bàn, vẫn sống an vui tự tại.

Thế thì Tịnh, Uế là do tâm chớ không phải do cảnh. Do đó mười phương quốc độ đều là hư không, là thanh tịnh nếu chúng ta có tâm thanh tịnh.
 
Khi chúng ta tiếp cận với các tôn giáo và các pháp tu, về mặt học thuật và lý luận cần có sự phân biệt rõ ràng giữa các đối tượng tu tập tương ứng với thành tựu cụ thể để cho các tín đồ biết mình đang ở giai đoạn nào, từ đó khích lệ phát triển linh hồn, chuyên tâm tu tập để đạt tới cảnh giới giác ngộ cao hơn.
 
Thanh Văn - Phàm Tăng

Các vị Hàng Thanh Văn thường tự cho đã được Niết-bàn không kham nhiệm gì nữa, chưa phát tâm cầu thêm đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, Vô tướng, Vô tác. là ba môn giải thoát.

Khi tu dừng hết mọi vọng tưởng, sạch hết kiết sử gọi đó là Không. Vì không còn vọng tưởng, không còn kiết sử, tâm vắng lặng không hình tướng nên nói là Vô tướng. Bởi không có hình tướng nên không có động tác nói là vô tác.

Đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-tát, các vị Thanh Văn tâm chưa đạt đến. Vậy, không, vô tướng, vô tác là ba cửa giải thoát của hàng Nhị thừa. Hàng Thanh văn do nhận được lý ấy mà thoát ly sanh tử. Đó là đứng trên pháp vô vi mà nói.

Nếu nhìn trên tướng hữu vi thì các pháp do duyên hợp tạm có các tướng, nhưng không có tự tánh cố định, nó chỉ là giả tướng không thật nên nói là vô tướng. Vì trên tánh không, nó không có tạo tác, vì tạo tác là tướng của duyên, nên nói là vô tác.

Hàng Thanh văn lấy làm hài lòng ở ba món giải thoát này, cho đó là đã đủ, không khởi nguyện làm lợi ích chúng sanh. Nên đối với pháp du hí thần thông tam-muội, tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sanh thì các Ngài không ưa thích.

Ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Phật dạy Bồ-tát không hề sanh một niệm ưa thích. Hàng Thanh văn an trụ trong Niết-bàn tịch tịnh, không khởi nguyện độ sanh, vì sợ khởi nguyện là khởi nhân phiền não, nên các Ngài chìm lặng mãi trong Niết-bàn tịch tịnh

Còn tâm hạnh phàm tăng của chúng ta ngày nay làm cái gì là kẹt cái nấy, tới đâu là dính đó, do ngã chấp chưa buông, nên ngay khi độ sinh là khởi phiền não. Vì vậy mà không được thần thông du hí tam-muội.
 
Phàm Nhân thì lúc nào cũng chấp đời là biển khổ, mà muốn hết khổ thì phải diệt cho hết vọng thức điên đảo trong tâm. Họ cố gắng theo con đường Giới, Định, Tuệ để tìm được ánh sáng chân lý mà soi sáng tâm thức của mình ngỏ hầu tìm sự an lạc hạnh phúc cho mình. Nhưng con đường dẫn tới chân lý gập ghềnh chông gai làm họ thối chí nản lòng. Biết đời là khổ mà thoát ra chưa được thì cuộc đời dưới con mắt của họ vẫn còn là chông gai trắc trở, bất toại nguyện.

Còn hàng Thanh Văn thì cũng nhìn đời là vô thường, vô ngã, sinh diệt vô cùng vô tận nên họ lánh xa thế gian để cố gắng tu tập mà đoạn trừ mọi phiền não khổ đau ngỏ hầu chứng được sự an lạc thanh tịnh của Niết bàn cho riêng mình.

Bồ-tát không chấp đời là bể khổ, không chấp có Niết bàn an vui, không chấp có vọng thức điên đảo cần phải điều phục. Đối với Bồ-tát thì các Ngài đã lìa khổ vui, lìa vọng thức điên đảo vì khi nhập thế độ sanh thì tâm các Ngài tịch mặc, không bị khổ vui chi phối. Sáu căn thường sáng tỏ, không dính mắc, khéo tùy duyên mà độ chúng sinh, không sợ nghịch cảnh xa lánh thế gian như hàng Thanh Văn và dĩ nhiên không bị tham đắm trong dục lạc như Phàm Nhân.
 
Phàm Nhân ăn thì chê ngon chê dở, làm thì chỉ cầu lợi cho mình và tâm thì chìm trong ái dục cho nên sáu căn bị dính mắc làm thân-khẩu-ý bất tịnh mà tạo ra nghiệp.

Thanh Văn là sợ ô nhiễm, ái dục nên lánh xa trần thế mà cầu an lạc Niết bàn. Thanh Văn vì thấy thế gian vũ trụ là sinh diệt nên họ cố tu để mong chứng quả vị Bồ-đề và cầu sự tịch diệt an lạc của Niết bàn nên họ còn chấp Pháp có

Khi nhân duyên hòa hợp thì vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho nên tuy vạn pháp sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà chúng sinh vẫn luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh nầy. Cùng lối nhìn như Bồ-tát để thấy rằng con người, vạn pháp là Không nghĩa là không thật có mà hiện giờ nó vẫn có vì thế con người nên làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù họ là không có thật.

Bồ-tát tuy ở trong sinh tử mà không bị nhiễm ô. Bồ-tát lăng lộn chốn bụi trần, lấy chướng duyên, nghịch cảnh làm đối tượng để độ đời. Không sợ dục lạc, ô nhiễm vì tâm các ngài hằng thanh tịnh.
Với tâm tỉnh giác hoàn toàn các ngài dùng đối tượng của chướng duyên nghịch cảnh mà giáo hóa chúng sinh để giúp họ quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình. Chuyển ác thành thiện, chuyển xấu thành tốt, chuyển phiền não khổ đau thành thanh tịnh an lành.
 
Trong cuộc sống, con người sẽ không còn chấp Tướng, tức là hình sắc, âm thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự…thì cuộc sống sẽ an vui tự tại, không còn ràng buộc khổ đau.

Nếu không chấp vào hình tướng thì con người sẽ không còn quan trọng đến nhà sang, xe đẹp, áo lụa quần là, se sua chưng diện xa hoa…mà chỉ cần đứng đắn chỉnh tề, tâm tư thanh thoát và ung dung tự tại.

Nếu không chấp âm thanh, lời nói, văn tự vì chúng là giả huyễn, là sinh diệt thì con người sẽ dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những tiếng thị phi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh để thấy rằng: “Nhất thế sắc giai thị Phật sắc, nhất thế thanh giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm thanh tịnh thì tất cả hình tướng đều là hình tướng Phậttất cả âm thanh đều là âm thanh Phật.
 
Sửa bởi Amin:
Back
Top Dưới