Đạo và Đời
Quản Trị Diễn Đàn 0989.913.611
Tiểu Sử ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI - Phần 3
Khi xuất gia Đức Phật có pháp danh là Sa môn Gotama
Khi xuất gia Đức Phật có pháp danh là Sa môn Gotama
1. Vị đạo sư thứ nhất: Alara Kalama.
Khi sa môn Gotama vừa gặp đạo sư Alara Kalama liền đảnh lễ và nói:
Thưa đạo sư, xin đạo sư cho con thọ giáo và sống đời phạm hạnh thiêng liêng dưới sự hướng dẫn của đạo sư.
Hãy ở lại đây với ta, hỡi anh bạn trẻ, cách dạy của ta nhằm giúp người thông minh sớm nhận thức được giáo lý cao siêu bằng trí tuệ trực giác của chính mình, và thực hiện cuộc sống trong sự chứng ngộ đó. Người tu phải diệt trừ chấp thân là ngã, đến khi thành tựu thì thần thức rời khỏi thân như chim sổ lồng, mặc tình bay lượn tự do trong tam giới, đó là giải thoát.
Thưa đạo sư, giáo lý cao siêu mà đạo sư đã nhận thức bằng trí tuệ trực giác phải được thực hành như thế nào và kết quả như thế nào?
Ðạo sư Alara Kalama liền giải thích cho sa môn Gotama biết cách tu tập và các cảnh giới chứng ngộ theo thứ lớp như sau:
1.1- Không tham sống sợ chết, không ham muốn danh lợi tài sản thế gian, nhàm chán các thú vui thế tục, sẵn sàng vui vẻ lìa bỏ tất cả thì đắc Sơ thiền, đạt Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa (được tâm ly trần bất nhiễm). Sau khi mạng chung, có thể sanh đến các cõi trời Phạm chúng thiên (Brahma parisajja), Phạm phụ thiên (Brahma purohita), Ðại phạm thiên (Mahabrahma). Người đắc sơ thiền ví như thau nước đục (tâm) để yên lâu ngày, cặn cáu (phiền não) lắng xuống được thân tâm nhẹ nhàng vui vẻ; nhưng khi nước bị quấy động, cặn cáu lại nổi trở lên.
1.2- Xa lìa các thú vui thế tục, chuyên vui trong thiền định thì đắc Nhị thiền, đạt Ðịnh Sanh Hỷ Lạc Ðịa (được tâm định). Sau khi mạng chung, có thể sanh đến các cõi trời Thiểu quang thiên (Parittabha), Vô lượng quang thiên (Appamanabha), Quang âm thiên (Abhassara). Người đắc nhị thiền ví như thau nước đục để yên lâu ngày, cặn cáu lắng hết xuống đáy thau, nước trở nên trong suốt, tâm được nhẹ nhàng, định tỉnh, sáng suốt; nhưng khi nước bị quấy động, cặn cáu lại nổi trở lên.
1.3- Năm căn thanh tịnh. Không còn cảm thọ buồn vui trước ngoại cảnh, tâm luôn luôn an lạc trong chánh niệm thì đắc Tam thiền, đạt Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa (được năm căn thanh tịnh). Sau khi mạng chung, có thể sanh đến các cõi trời Thiểu tịnh thiên (Parittasubha), Vô lượng tịnh thiên (Appamanasubha), Biến tịnh thiên (Subhakinha). Người đắc tam thiền ví như thau nước đục được lắng trong, tất cả cặn cáu đều lắng xuống đáy thau và được vớt bỏ ra ngoài hết
1.4- Sáu căn thanh tịnh. Không còn ý thức phân biệt, không còn cố chấp đúng sai, phải quấy, hay dở, tốt xấu, mê ngộ, chánh tà. Tâm luôn luôn an lạc, thanh tịnh, siêu thoát, không ngăn ngại thì đắc Tứ thiền, đạt Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa (được ý căn thanh tịnh). Sau khi mạng chung, có thể sanh đến các cõi trời Quảng Quả thiên (Vehapphala), Vô Tưởng thiên (Asanna), Vô Phiền thiên (Aviha), Vô Nhiệt thiên (Atapa), Thiện Kiến thiên (Sudassana), Thiện Hiện thiên (Sudassa), Sắc Cứu Cánh thiên (Akanittha). Người đắc tứ thiền ví như thau nước hoàn toàn trong trẻo tinh khiết, không còn một chút cặn cáu. Nước có thể bị quấy động, nhưng vẫn trong trẻo, không bị vẩn đục.
1.5- Thực hành thiền định, hòa mình với vạn vật vô biên. Cảm thấy thân mình và vạn vật đồng một thể tánh, đồng hòa tan trong cõi hư vô không biên giới, thì đắc Không Vô Biên Xứ (Akasanantya yatana), được thân không. Sau khi mạng chung, có thể sanh vào cõi trời Vô sắc thứ nhứt. Người đắc Không Vô Biên Xứ ví như nước đã bốc thành hơi, không còn trông thấy, nhưng có thể đong lại thành mây, thành mưa. Người đắc Không Vô Biên Xứ có thể được Thần Túc Thông.
1.6- Thực hành thiền định, không còn thấy mình có thân, chỉ còn cái tâm thức vô biên, bình đẳng với chúng sanh muôn loài không khác, thì đắc Thức Vô Biên Xứ(Vijnanantya yatana), được thức không. Sau khi mạng chung, có thể sanh vào cõi trời Vô sắc thứ hai. Người đắc Thức Vô Biên Xứ ví như nước đã bốc thành hơi thật nhẹ, không thể đong lại thành mây, thành mưa nữa. Người đắc Thức Vô Biên Xứ có thể được Thiên Nhản Thông, Thiên Nhĩ Thông và Tha Tâm Thông.
1.7- Thực hành thiền định đến khi chứng ngộ các pháp đều không, không có gì là của mình (Vô sở hữu), không có gì để chứng đắc (Vô sở đắc), không có gì cần thiết (Vô sở dụng), thì đắc Vô Sở Hữu Xứ (Akincanna yatana), được pháp không. Sau khi mạng chung, có thể sanh vào cõi trời Vô sắc thứ ba. Ðó là cõi trời cao nhứt mà tôi đã chứng ngộ. Ngoài ra không còn gì nữa. Người đắc Vô Sở Hữu Xứ ví như nước đã bốc thành hơi thật nhẹ, vượt ra ngoài bầu khí quyển, chỉ còn một chút tánh ướt. Người đắc Vô Sở Hữu Xứ có thể biết được một số kiếp trước của mình.
Sa môn Gotama theo lời chỉ dẫn đó tu tập vài ngày cũng chứng ngộ cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ. Nhưng ngài cũng thất vọng vì chưa thấu triệt được chơn lý tối thượng mà ngài mong ước. Ðạo sư Alara Kalama lấy làm hoan hỷ thấy đệ tử lỗi lạc của mình thành công mau chóng, khen rằng:
Này đạo hữu, tôi thật vô cùng hoan hỷ được có một người bạn đồng tu đáng kính như đạo hữu. Giáo lý mà tôi đã chứng ngộ bằng tuệ giác và đã tuyên bố thành đạt, thì nay đạo hữu cũng đã chứng ngộ như tôi. Vậy đạo hữu hãy ở lại đây với tôi, chúng ta hãy cùng nhau hợp sức dẫn dắt nhóm đạo sĩ này.
Thưa đạo sư, tâm lìa khỏi thân vẫn còn ngã chấp, tức còn sanh tử luân hồi. Con tự thấy cần phải tu tiến thêm nữa vì tâm con chưa hoàn toàn vắng lặng, cội gốc sanh tử chưa dứt trừ, cảnh giới niết bàn chưa chứng ngộ, chơn lý vô thượng chưa thông đạt. Con xin từ giã đạo sư để tiếp tục lên đường tầm đạo.
2. Vị đạo sư thứ hai: Uddaka Ramaputta
Ông Kondanna khuyên sa môn Gotama nên đến gặp thầy cũ của ông là đạo sư Uddaka Ramaputta (Uất Ðầu Lam Phất) ở gần thành Rajagriha (Vương Xá), xứ Magadha (Ma kiệt đà). Thành Rajagriha, còn gọi là Rajagaha, cách Vesali khoảng 160 km về hướng nam. Sa môn Gotama cùng với năm anh em ông Kondanna đi mười ngày đường đến gặp đạo sư Uddaka Ramaputta. Lúc bấy giờ đạo sư đã 75 tuổi và có 700 đệ tử, 300 tu học tại chỗ và 400 ở các địa điểm khác. Ðạo sư giảng:
Thông thường người ta hay chấp nơi hình tướng của muôn sự muôn vật, hoặc chấp rằng các sự vật đều không có hình tướng, như vậy đều là lầm lạc cả. Nên cần suy xét cho chính chắn, chỉ lãnh thọ cái thể nhiệm mầu (cái tinh thể, chơn như) của muôn sự muôn vật mà thôi. Như vậy mới tránh khỏi mọi vọng chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, tâm không còn nghĩ tưởng (được tưởng không), đặng quả giải thoát cao nhứt, không còn đau khổ nữa, và sanh về cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng".
Sa môn Gotama nhập định vài ngày đã chứng được định Phi tưởng phi phi tưởng, không còn tri thức cũng không phải không còn tri thức, tâm thức trở nên tế nhị đến đỗi không thể nói là có hay không có tâm thức. Ví như nước đã rã ra thành oxy và hydro, không phải nước nhưng cũng có thể là nước. Ðược tin nầy đạo sư Uddaka Ramaputta rất lấy làm vui vẻ nói:
Này đạo hữu Gotama, tôi vô cùng hoan hỷ được có một người bạn đồng tu tài đức đáng tôn kính như đạo hữu. Những gì tôi đã hiểu biết và chứng ngộ thì nay đạo hữu cũng đã hiểu biết và chứng ngộ. Vậy thì đạo hữu hãy ở lại đây để dẫn dắt nhóm đạo sĩ này hộ tôi, vì tôi nay đã quá già rồi, không còn ở thế gian này bao lâu nữa.
Thưa đạo sư, con thấy trong cảnh giới Phi tưởng Phi phi tưởng vẫn còn các hành nghiệp vi tế làm nhân cho tám cái khổ vi tế sau đây:
2.1- Tâm còn sanh niệm, đó là sanh khổ.
2.2- Niệm niệm nối tiếp nhau, đó là già khổ.
2.3- Ðộng niệm chưa dứt, định lực chưa vững, đó là bệnh khổ.
2.4- Ðịnh lực còn có thể bị thối chuyển, đó là tử khổ.
2.5- Còn nhớ nhung, đó là ái biệt ly khổ.
2.6- Còn có điều không vừa ý, đó là oán tắng hội khổ.
2.7- Có khi cầu định chẳng đặng vì có sự cản trở, đó là cầu bất đắc khổ.
2.8- Thọ, tưởng, hành, thức chưa hoàn toàn dứt, đó là ấm xí thạnh khổ.
Con cầu đạo vô thượng, mong dứt trừ tận gốc rễ mọi hình thức đau khổ. Chí nguyện chưa thành, nên con xin phép đạo sư được tiếp tục lên đường tầm đạo.
Này đạo hữu Gotama, đạo sư Uddaka Ramaputta nói, chí nguyện cao cả của đạo hữu thật đáng thán phục, vậy khi đạo hữu thành công xin hãy nhớ đến tôi trước.
3. Sáu năm tu khổ hạnh tại Uruvela
Sa môn Gotama thấy rằng không còn ai khác giỏi hơn để ngài có thể nương tựa, đã đến lúc ngài phải tự tu tự chứng để đạt sở nguyện. Ngài bèn cùng với 5 người bạn đạo là Kiều Trần Như, Bạt Ðề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Ha Nam Câu Lỵ và Át Bệ từ giã đạo sư Uddaka Ramaputta, đến khổ hạnh lâm tại làng Uruvela, gần thành phố Gaya, cách Vương xá khoảng 30 km về phía đông nam, để chuyên tu khổ hạnh. Vào thời bấy giờ, cho đến nay vẫn còn, ở Ấn độ, có nhiều đạo sĩ tin tưởng mãnh liệt rằng lối tu khắc khe ép xác, khổ hạnh có thể khắc phục và thanh lọc thân tâm, diệt trừ tất cả dục vọng, và đưa đến giải thoát cùng tột. Dĩ nhiên sa môn Gotama quyết định trắc nghiệm pháp môn này.
Ngài đến một hang đá hẻo lánh ở lưng chừng núi Dungsiri, bắt đầu một cuộc tranh đấu quyết liệt để khắc phục thân xác, với niềm hy vọng rằng một khi đã làm chủ được mọi nhu cầu phức tạp và phiền toái của thân thì tâm sẽ được giải phóng khỏi sự thống trị của vật chất để đạt đến mức độ giải thoát cao siêu. Ngài cố gắng đến mức cùng tột của lối tu khổ hạnh. Chỉ ăn lá, rễ cây, vài hột mè, hột đậu mỗi ngày, ngủ rất ít, suốt ngày ngồi thiền hoặc đi kinh hành. Thân hình ngài chỉ còn da bọc xương, cái rốn gần đụng xương sống. Về sau đức Phật đã kể lại trong kinh Trung Bộ số 36, cảnh ngài tu khổ hạnh như sau:
* Lúc ấy tư tưởng sau đây phát sanh đến tôi: Hay là ta thử cắn chặt răng lại, cong đầu lưỡi ép sát vào vòm hàm trên, và dùng tư tưởng thiện đè bẹp, chế ngự và tiêu diệt tư tưởng xấu. Thế rồi tôi cắn chặt răng lại, cong đầu lưỡi ép sát vào vòm hàm trên, và cố gắng đè bẹp, chế ngự, tiêu diệt tư tưởng xấu bằng những tư tưởng tốt. Lúc tôi tranh đấu như vậy thì mồ hôi từ trong nách tôi chảy tuôn ra. Như một người mạnh đè đầu đè cổ một người yếu xuống, ấn mạnh xuống, bắt phải thần phục, tôi cũng tranh đấu như vậy để hàng phục những tư tưởng bất thiện. Nghị lực tôi thật mạnh mẽ và bất khuất. Tinh thần tôi thật vững vàng không lay động. Nhưng thân tôi mòn mỏi không còn chịu đựng nổi sự cố gắng kiên trì đè nặng lên nó. Mặc dù những cảm giác đau đớn đó phát sanh trong thân tôi, nó không ảnh hưởng đến tâm tôi chút nào.
* Rồi tôi tự nghĩ: Hay là ta hãy tham thiền về sự nín thở một lần nữa! Rồi tôi kiểm soát chặt chẽ sự hít vào và thở ra bằng miệng, bằng lỗ mũi, bằng lỗ tai. Và khi tôi nín thở thì đầu tôi đau bưng lên khủng khiếp. Cũng như có một lực sĩ siết chặt đầu tôi bằng một sợi dây da cứng. Tuy nhiên nghị lực tôi vẫn mạnh, Những cảm giác đau đớn đó không ảnh hưởng gì đến tâm tôi.
* Rồi tôi tự nghĩ: Hay là ta hãy tham thiền về sự nín thở một lần nữa! Rồi tôi nín thở bằng miệng, bằng lỗ mũi, bằng lỗ tai. Khi tôi kiểm soát hơi thở như thế thì một luồng hơi mạnh thọc xuyên qua bụng tôi. Cũng như có một tên đồ tể thiện nghệ hay mới tập sự đang dùng dao bén rạch bụng tôi. Tuy nhiên nghị lực tôi vẫn mạnh. Cảm giác đau đớn như thế không hề ảnh hưởng gì đến tâm tôi.
* Một lần nữa, tôi lại tự nghĩ: Hay là ta lại tham thiền về sự nín thở một lần nữa! Rồi tôi kiểm soát hơi thở ra thở vào bằng miệng, bằng lỗ mũi và bằng lỗ tai. Khi tôi nín thở thì một hơi nóng kinh khủng thiêu đốt thân tôi. Cũng như có hai người lực sĩ đang nắm chặt tay chân tôi đặt lên một đống than cháy đỏ cho đến khi thân tôi bị thiêu rụi. Dù vậy nghị lực tôi vẫn mạnh. Cảm giác đau đớn như thế không hề ảnh hưởng đến tâm tôi.
* Lúc bấy giờ có những vị thiên thần thấy tôi như vậy thì nói với nhau rằng: Ðạo sĩ khổ hạnh Gotama đã chết. Vài vị khác nói: Ðạo sĩ khổ hạnh Gotama chưa chết, nhưng đang chết dần. Trong khi vài vị khác nói: Ðạo sĩ khổ hạnh Gotama chưa chết, cũng không phải đang chết dần vì ngài là một vị A la hán. Ðây chỉ là lối sống của một vị A la hán.
* Rồi tôi tự nghĩ: Hay ta thử hành pháp tuyệt thực hoàn toàn! Lúc bấy giờ có những vị thiên thần đến gần tôi và nói: Thưa ngài, ngài không nên hành pháp tuyệt thực hoàn toàn. Nếu ngài làm như vậy, chúng tôi sẽ rót thiên tinh thể bổ dưỡng vào thân ngài qua các lỗ chân lông để nuôi sống ngài. Tôi nghĩ: Nếu ta nói ta hành pháp tuyệt thực mà các thiên thần lại rót thiên tinh thể bổ dưỡng vào thân qua các lỗ chân lông để nuôi sống ta, té ra ta gian dối. Thôi ta không cần phải tuyệt thực.
* Rồi tôi lại nghĩ: Hay ta chỉ thọ thực mỗi ngày một bụm nước đậu hoặc rau cỏ! Khi tôi chỉ dùng thật ít vật thực đặc hoặc lỏng như thế thì thân tôi trở nên gầy khô như những cọng sậy ghép lại với nhau. Bàn tọa của tôi chỉ còn bằng cái móng chân con lạc đà. Xương sống tôi như một xâu chuỗi dựng đứng lên và cong vào. Xương sườn tôi tựa như một cái sườn nhà bị sụp đổ. Tròng mắt tôi chẳng khác nào hình ảnh những ngôi sao dưới đáy giếng sâu. Da đầu tôi rụng tóc, nhăn nheo như một trái mướp phơi khô. Khi muốn rờ da bụng thì tay tôi đụng nhằm xương sống. Khi muốn rờ xương sống thì tay tôi đụng nhằm da bụng. Vì thiếu vật thực, da bụng tôi ép sát vào xương sống. Lúc muốn đứng dậy đi tiểu tiện thì tôi luống cuống té ngã xuống. Tôi đập nhẹ tay chân cho thân mình tôi sống lại. Than ôi, lúc đập như thế, lông trên mình tôi lả tả rơi xuống đất vì đã chết gốc. Những người thấy tôi như vậy thì nói: Ðạo sĩ Gotama da đen. Có người lại nói: Ðạo sĩ Gotama da không phải đen mà xanh. Có người lại nói: Ðạo sĩ Gotama không đen, không xanh mà nâu sậm. Màu da sáng sủa của tôi trở nên tàn tệ đến như thế vì thiếu vật thực."
* Rồi tôi tự nghĩ: Dù các đạo sĩ khổ hạnh hay Bà la môn trong quá khứ đã chịu đựng những cảm giác nhức nhối, đau đớn, xót xa như thế nào thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn nữa. Dù các đạo sĩ khổ hạnh hay Bà la môn trong tương lai sẽ chịu đựng những cảm giác nhức nhối, đau đớn, xót xa như thế nào thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn. Tuy nhiên, dù đã trải qua bao nhiêu khắc khổ, khó khăn, đau đớn, tôi vẫn chưa đạt được sự giác ngộ tối thượng về nội tâm vượt lên trên trạng thái con người. Hay là còn con đường nào khác dẫn đến sự Chứng Ngộ tối thượng?"
4. Gần 6 năm tu khổ hạnh,
Sức lực sa môn Gotama càng ngày càng suy yếu, thân thể gầy còm do sự nhịn ăn, thức đêm, thức ngày. Có khi ngài bị ngất xỉu trong lúc ngồi thiền dưới cội cây hoặc lúc đang đi kinh hành. Hiện nay còn có một động đá ở lưng chừng núi Dungsiri, vùng Uruvela, cách Bodh Gaya khoảng 5 km về hướngđông bắc, kỷ niệm nơi ngài tu khổ hạnh. Trước động đá hiện có một ngôi chùa Tây Tạng.
Một hôm, đang ngồi thiền cạnh bờ sông Ni liên thiền, sa môn Gotama bỗng nghe tiếng một giáo sư âm nhạc đang dạy học trò trên một chiếc thuyền đi ngang qua: "Con nên nhớ, lên dây đàn phải vừa đúng độ căng, tiếng đàn mới thanh tao. Nếu dây dùng quá thì tiếng đàn mềm nhũng điếc câm, nếu dây căng quá thì dây phải đứt ". Ðang lúc thân thể suy tàn cùng cực, sa môn Gotama bừng ngộ pháp tu trung đạo.