Các Ngài thị hiện vào nơi sinh tử, sống chung đụng với say đắm sắc dục mà không hề bị nhiễm ô.
Hóa độ mọi loài chúng sinh mà không hề bị dính mắc, không biến tình thương rộng lớn thành từ bi ái kiến.
Biết vạn pháp là Không, thế gian giả tạm mà các Ngài vẫn trồng các cội lành công đức.
Biết thân là vô ngã, vô thường, vô tướng, các Ngài vẫn cứu độ tất cả chúng sinh không bỏ sót một ai.
Vẫn biết thế gian vũ trụ là do duyên sinh phát khởi chớ không do ai tác tạo mà các Ngài vẫn thị hiện làm các hạnh lành.
Biết đời là vô khởi, tức là vô sanh mà lúc nào các Ngài cũng khởi sanh làm các việc lành.
Tuy biết tu hành là Vô cầu Vô chứng đắc, các Ngài vẫn dìu dắt chúng sinh đến chỗ giải thoát giác ngộ để cùng hưởng hương vị tịch diệt an lạc của Niết bàn.
Bồ-tát vì chúng sinh mà tu theo pháp Thập nhị nhân duyên, thực hành Lục độ Ba-la-mật hay quán chiếu 37 phẩm trợ đạo mà tâm không hề dính mắc các pháp sinh diệt của thế gian.
Các Ngài dựa theo các pháp tu để dìu dắt chúng sinh đến bờ giải thoát vì tất cả các pháp chỉ là phương tiện
Tuy Bồ-tát đã thấu rõ Bản Thể bất sanh bất diệt là Chân tâm, là Phật tánh thanh tịnh bên trong tức là Không, nhưng Không và Sắc không thể rời nhau. Vì thế khi thị hiện mang thân ngũ uẩn tức là Sắc thì các Ngài vẫn đeo chuỗi ngọc, tràng hoa, y phục lộng lẫy mà trang nghiêm cho tướng hảo của mình để chúng sinh kính mến mà quy theo còn các Ngài không hề đắm say những thứ sinh diệt kia.
Tuy hiện thân là Thanh văn, Duyên giác nhưng không quên nhắc nhở chúng sinh mục đích tối hậu vẫn là viên thành Bồ-tát đạo.
Đó là tuy đã thành Phật nhưng vẫn vì chúng sinh mà thị hiện độ sanh cứu khổ. Cũng như Đức Quán Thế Âm Bồ-tát vốn là một vị Cổ Phật danh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai đã thị hiện làm thị giả cho Phật A Di Đà với danh hiệu đại từ đại bi và ứng hiện rất nhiều thân để cứu khổ cứu nạn cho tất cả mọi loài chúng sinh trong cõi Ta bà nầy.
Bồ-tát vào đời độ sinh cũng vì lợi ích cho chúng sinh. Họ thị hiện làm người ác, làm người xấu để khai thị, giúp đở chúng sinh bỏ ác phục thiện.
Ở đây Bồ-tát khi thực hành các hạnh nguyện thì các Ngài thị hiện tham-sân-si để làm Phật sự bởi vì
- Tham để cảnh tỉnh chúng sinh phát tâm bố thí,
- Sân để giúp chúng sinh phát huy tâm nhẫn nhục và
- Si để dẫn dắt chúng sinh tịnh tâm bằng cách niệm Phật hay tham thiền.
Các Ngài giả bộ làm việc ác để chúng sinh thấy đây là tội lỗi mà xa lánh. Cũng như cha mẹ la rầy con cái là muốn chúng chăm lo học hành.
Vì thế đối với Bồ-tát thì họ không chấp phương tiện mà chỉ quan tâm đến cứu cánh. Do đó nếu thị hiện tham-sân-si để cảnh tỉnh người mà tâm hằng thanh tịnh thì đó là Bồ-tát. Ngược lại tâm còn tham-sân-si thì vẫn là phàm phu.
Bồ-tát thì lúc nào cũng lấy từ bi và trí tuệ làm gốc. Bởi vì từ bi là tình thương không phân biệt thân sơ và chính là tình thương chân thật bình đẳng, nhưng từ bi mà không có trí tuệ thì từ bi dễ bị tình cảm chi phối, thiếu sáng suốt và yếu đuối. Còn trí tuệ mà thiếu từ bi thì thành trí tuệ khô tức là sự khôn ngoan mánh lới chỉ làm lợi ích cho riêng mình, phát triển tánh tham tật đố và tăng trưởng bản ngã mà thôi. Vì thế Bồ-tát luôn luôn lấy Bi-Trí viên thông mà hành đạo.
Vào đời nhập thế để cứu giúp chúng sinh mà trí tuệ hằng sáng. Tuy đã chứng đắc quả Niết bàn thanh tịnh nhưng không an hưởng cho riêng mình mà tự nguyện nhập thế độ sanh cứu vớt chúng sinh còn trầm luân trong biển sinh tử luân hồi.
Vì hạnh Bồ- tát rộng lớn như thế mà Địa Tạng Vương Bồ-tát đã phát lời thệ nguyện rằng:”Ngày nào còn chúng sinh bị đọa vào tam ác đạo thì Ngài chưa thành Phật. Khi độ hết chúng sinh thì Ngài mới thành Chánh giác